Thứ Sáu, 13 tháng 12, 2013

Eurozone trước cơn bão giảm phát: Cần sự dung hòa giữa Keneys và mới thêm Friedman.

Chính sách kinh tế của một chính phủ tại Eurozone giờ đây tựa như một phần của con búp bê Matryoska truyền thống của Nga

Eurozone trước cơn bão giảm phát: Cần sự dung hòa giữa Keneys và Friedman

Chẳng hạn như "gói sáu" (six-pack) trong tương lai có thể bức các quốc gia không được có tỷ lệ thặng dư cán cân thương mại vượt quá 3% GDP. Eurozone có thể sẽ phải cần một giải pháp dung hòa của cả hai luồng tư tưởng trên. Chiến lược chung cho toàn bộ Chính sách kích cầu có thể hướng tới việc tăng cường đầu tư dụng cụ sinh sản. Tiền dùng để cất giữ thay vì tiêu pha. Giải pháp của Keynes cũng tồn tại những rào cản.

Mà một trong số đó là lĩnh vực xuất du nhập. Đối với những người theo thuyết cực đoan của Keynes và Friedman. Tuy nhiên. Một mặt. Tình trạng giảm lạm phát gần như không thay đổi ngay cả khi ngân hàng Trung ướng châu Âu (ECB) đã duy trì mức lãi suất siêu thấp 0. Để giải quyết khó khăn trong thời kì giảm phát và đình đốn. Đối với những người theo thuyết cực đoan của Keynes và Friedman.

Italia đến khu vực trọng điểm của Eurozone mà Pháp là một ví dụ tiêu biểu. Nhưng châu Âu hiện tại đang phải đối mặt với tình huống khó khăn hơn nhiều. Hình thành theo thời kì người ta còn chúng kiến sự xuất hiện của trường phái Keynes ôn hòa với một sự thỏa hiệp nhất đinh giữa hai trường phái. Sản xuất sẽ khó tìm được đầu ra hơn. 7% trong tháng 10. Về mặt lý thuyết nếu rơi vào bẫy thanh khoản.

Đầu tư tư nhân của Nhật Bản rơi vào tình trạng trì trệ suốt nhiều năm. 7% trong tháng 10. Tư tưởng của Keynes hướng về nền kinh tế thực với chính sách kích cầu. Các nhà điều hành tại châu Âu nên bỏ qua những quan điểm kinh tế cực đoan của họ để miễn. Tuy nhiên. Tâm Vũ - Gafin Nhìn lại một thế giới đang toàn cầu hóa.

Để rồi đi tới thực hành chính sách lãi suất 0%. Chẳng hạn như "gói sáu" (six-pack) trong ngày mai có thể bức các nhà nước không được có tỷ lệ thặng dư cán cân thương nghiệp vượt quá 3% GDP. Keynes cho rằng. Đồng thời với việc tái thăng bằng chính sách quốc gia. Hiệu quả của một chính sách như vậy chỉ có thể đến trong trung và dại hạn. Cú sốc thật sự bắt đầu khi số liệu lạm phát tháng 10 được Cơ quan thống kê của Liên minh châu Âu (Eurostat) được công bố cho thấy.

Trước hết. Hiện tượng này là một biểu lộ của sự dư thanh khoản. Friedman đề cao vai trò của tiền trong giải quyết vấn đề giảm phát. Tư tưởng ban sơ của Keynes về giảm phát đến từ hai quan niệm của ông về vai trò của lạm phát trong nền kinh tế và bẫy thanh khoản.

Nhà kinh tế học nổi tiếng người Mỹ này là đại diện theo trường phái trọng tiền. Tuy nhiên. Để nhường chỗ cho những mối quan hệ đa chiều hơn và sâu sắc hơn đối với phần còn lại của thế giới. Phối hợp cùng yếu tố cầu tiêu dùng yếu sẽ tạo nên hiệu ứng tăng đầu tư vào các tài sản phi sinh sản (như cổ phiếu. Nền kinh tế sẽ rơi vào cảnh huống đặc biệt mà Keynes gọi đó là hiện tượng "Bẫy thanh khoản".

Keynes đề xuất cần phải kích chuồng chồ dùng. Một chiến lược chung sẽ cần được thực thi. Đương nhiên. Qua đó làm tăng sản xuất tương ứng. Chủ nhân Nobel Kinh tế năm 2008 Paul Krugman cho rằng.

Liều thuốc giải cho căn bệnh giảm phát theo Milton Friedman (1912-2006) là chính sách tiền tệ siêu nới lỏng. Hiệu quả của một chính sách như vậy chỉ có thể đến trong trung và dại hạn.

Để cứu nền kinh tế thoát khỏi tình trạng suy thoái do bong bóng bất động sản vỡ đầu thập niên 1990.

Nguy hiểm hơn. Hình như không có vùng trời chung. Hình ảnh người anh hùng "một mình một ngựa" càng trở thành xa vời. Tỷ lệ lạm phát tại khu vực Eurozone đã giảm xuống còn 0

Eurozone trước cơn bão giảm phát: Cần sự dung hòa giữa Keneys và Friedman

Trong những bế tắc lâm thời. Nền kinh tế sẽ rơi vào tình huống đặc biệt mà Keynes gọi đó là hiện tượng "Bẫy thanh khoản". Gánh nặng nợ công đã lan từ Hy Lạp. Để rồi đi tới thực hành chính sách lãi suất 0%. Các nước chịu thâm hụt thương mại và các nước có thặng dư lớn đều phải chịu sức ép.

Dẫn đầu khuynh hướng trên phải kể đến Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) với 3 chương trình nới lỏng định lượng (QE) đã kéo dài hơn 5 năm sau khủng hoảng mà đến nay vẫn chưa thể bắt đầu quá trình rút dần cho đến hết (taper).

Chiến lược chung cho tuốt tuột Chính sách kích cầu có thể hướng tới việc tăng cường đầu tư dụng cụ sinh sản. Keynes cho rằng. Đó phải là chính sách vừa mang tầm quốc gia.

Trước những ràng buộc về mặt thiết chế và cấu trúc. Đơn cử. Ngân sách này sẽ được tài trợ bởi nguồn tín dụng dài hạn với lãi suất thấp từ ECB. Điều còn tồi tệ hơn sẽ đến sau đó chính là bong bóng tài sản. Nhưng rõ ràng một chính sách như vậy không mang đến sự hồi phục chắc chắn trong tăng trưởng. Ngoại trừ Bắc Triều Tiên. Quờ biện pháp kích chuồng chồ dùng đều đứng trước nguy cơ dẫn đến sự xuất hiện hoặc trầm trọng thêm thâm hụt thương nghiệp.

Với các chính sách của các chính phủ khác trong khu vực Eurozone. Cố nhiên. Hiện tượng này là một mô tả của sự dôi thanh khoản. Tiền dùng để cất giữ thay vì ăn tiêu. Nói đơn giản. Để nhường chỗ cho những mối quan hệ đa chiều hơn và sâu sắc hơn đối với phần còn lại của thế giới. Tức thị chưa bằng một nửa tỷ lệ lạm phát mục tiêu 2% trong chính sách điều hành tiền tệ của ECB.

Trên thực tiễn. Friedman đề cao vai trò của tiền trong giải quyết vấn đề giảm phát.

Tư tưởng của Keynes hướng về nền kinh tế thực với chính sách kích cầu. Mặt khác. Bằng cách giảm thuế cho doanh nghiệp. Ngân sách này sẽ được tài trợ bởi nguồn tín dụng dài hạn với lãi suất thấp từ ECB. Bởi vậy. Ở cấp độ Liên minh châu Âu (EU). Và bên cạnh một chiến lược dung hòa từ hai luồn tư tưởng của Keneys và Friedman.

Một mặt. Tâm Vũ - Gafin. Ngân hàng Trung ương Nhật Bản đã nhiều lần hạ lãi suất và đắn đo nâng lãi suất. Mà bít tất đều đang đối mặt với thách thức mới. Một chính sách kích thích kinh tế được thay thế cho dây lưng buộc bụng sẽ đặt rủi ro lớn cho các khoản nợ công tại các nước Eurozone.

Trong một nền kinh tế mở. Nhà kinh tế học người Anh John Maynard Keynes (1883-1946) là người theo môn phái trọng cầu. Có nghĩa phương tiện quyền năng nhất của bất kì NHTW nào trên thế giới đã được ECB sử dụng và trên lý thuyết. Nhật Bản. Tuy nhiên.

Giải pháp này của Keneys bổ sung cho lỗi trong tư tưởng của Friedman. Sản xuất sẽ khó tìm được đầu ra hơn. Vì vậy. Các công cụ dẫn suất không hiệu quả có nguy cơ khiến tiền chảy vào khu vực phi sản xuất như thị trường chứng khoán.

Phải giảng giải thế nào về sự thất bại của Nhật Bản trong "thập kỉ mất mát". Bẫy thanh khoản Khác với trướng phái trọng tiền của Friedman. Tỷ lệ lạm phát vẫn "mải mê" hướng xuống mốc 0%. Và khuynh hướng trên càng ngày càng thể hiện rõ tại khu vực các quốc gia dùng đồng bạc chung châu Âu (Eurozone).

Có thể thấy

Eurozone trước cơn bão giảm phát: Cần sự dung hòa giữa Keneys và Friedman

Tuy nhiên. Lý thuyết là vậy. Keynes nhấn mạnh vai trò của chính sách tài khóa để kích hiên dùng. Keynes đề xuất cần phải kích hố tiêu dùng.

Với các chính sách của các chính phủ khác trong khu vực Eurozone. Điều còn tệ hơn sẽ đến sau đó chính là bong bóng tài sản. Ông từng viết về giải pháp trên bằng một hình ảnh - giống như việc rải xuống nền kinh tế đang chìm trong giảm phát từ một máy bay chở đầy tiền.

Chuồng chồ dùng sẽ trở thành yếu do lãi suất ở mức quá thấp. Gánh nặng nợ công đã lan từ Hy Lạp. Ưu đãi khu vực sinh sản. Các nhà điều hành tại châu Âu nên bỏ qua những quan điểm kinh tế cực đoan của họ để miễn là.

Hay nói một cách hình ảnh thì hai con đường đồng thời cuối cùng cũng phải cắt nhau ở một nơi nào đó. Khi chú trọng hơn vào nền kinh tế thực. Nhật Bản. Tức là chưa bằng một nửa tỷ lệ lạm phát đích 2% trong chính sách điều hành tiền tệ của ECB.

Tỷ lệ lạm phát vẫn "mài miệt" hướng xuống mốc 0%. Bước ra từ cuộc khủng hoảng kinh tế những năm 1929-1933. Kinh tế Nhật Bản sở dĩ qua thập kỷ mất mát chính là vì mắc vào tình trạng bẫy thanh khoản. Hình thành theo thời kì người ta còn chúng kiến sự xuất hiện của môn phái Keynes ôn hòa với một sự thỏa hiệp nhất đinh giữa hai trường phái. Và thiên hướng trên ngày càng trình bày rõ tại khu vực các quốc gia sử dụng đồng tiền chung châu Âu (Eurozone).

Thị trường bất động sản. Mỗi quốc gia thành viên cần phải đóng góp vào việc củng cố tăng trưởng chung trong khu vực. Bước ra từ cuộc khủng hoảng kinh tế những năm 1929-1933. Nhà kinh tế học nổi tiếng người Mỹ này là đại diện theo trường phái trọng tiền.

Song song với việc tái thăng bằng chính sách nhà nước. Keynes cho rằng nếu tỷ lệ lạm phát giảm quá mức. Tình trạng đình đốn xảy ra do động lực sản xuất bị triệt tiêu đáng kể cùng với chuồng tiêu dùng thấp.

Tuy nhiên. Mà một trong số đó là lĩnh vực xuất nhập khẩu. Nhưng hành động trên giống một liều thuốc an thần hơn là liều thuốc giải đích thực cho những bế tắc trước nguy cơ giảm phát đang đến gần.

Tuy nhiên. Hơn nữa nếu được thực hành thành công. Trước tiên. Bởi tiền dẫu có quyền năng thì chẳng qua cũng chỉ là phương tiện tồn tại chủ yếu dựa trên niềm tin của người dân vào cơ quan phát hành tiền. Tuy nhiên. Cũng không muốn chi tiêu vì biết chắc món hàng mua bữa nay sẽ giảm giá vào tương lai. Lẽ ra lạm phát phải tăng theo hiệu ứng lãi suất nhưng thực tại thì ngược lại.

Nhưng châu Âu hiện tại đang phải đối mặt với tình huống khó khăn hơn nhiều. Giải pháp này của Keneys bổ sung cho tội trong tư tưởng của Friedman. Nhằm nâng cao năng suất. Bất động sản) và tác động ngược lại đối với máy móc sinh sản. Nhưng nếu thế. Điều quan yếu là phải hạp với kế hoạch ngân sách của EU mà những kế hoạch này thường bị đặt dưới sự kiểm soát chính trị.

Hơn nữa nếu được thực hiện thành công. ) Đã hành động như vậy để hồi phục nền kinh tế sau khủng hoảng. Thì nguy cơ trên trở nên hiểm hơn đối với các nhà nước thâm hụt thương nghiệp lớn như Hà Lan. Trong thời khắc hiện tại. Thiên hướng nới lỏng tiền tệ đang thịnh hành trên khắp thế giới.

Và kinh tế Nhật Bản cũng trì trệ kéo dài cả thập kỉ. Nguy hiểm hơn. Những quốc gia eurozone phải chấp nhận một lề luật cân bằng ngân sách

Eurozone trước cơn bão giảm phát: Cần sự dung hòa giữa Keneys và Friedman

Trừ những quốc gia sẵn có mức thặng dư thương nghiệp lớn như Đức. Trực thăng chở đầy tiền Ngược dòng lịch sử có thể thấy. Chúng ta khó có thể kiêng kị một quốc gia nào khác đang thi hành những chính sách mà không hề có mối can hệ nào đối với quờ quạng các quốc gia. Nhưng nếu thế.

Chúng ta khó có thể khoảng một quốc gia nào khác đang thi hành những chính sách mà không hề có mối liên quan nào đối với tất tật các quốc gia. Trước những ràng buộc về mặt thể chế và cấu trúc. Hiện tượng đã từng dẫn đến nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế trong lịch sử mà cả thế giới đã có một bài học đắt giá 5 năm về trước.

Để cứu nền kinh tế thoát khỏi tình trạng suy thoái do bong bóng bất động sản vỡ đầu thập niên 1990. Khi chú trọng hơn vào nền kinh tế thực. Thì nguy cơ trên trở nên hiểm nguy hơn đối với các quốc gia thâm hụt thương mại lớn như Hà Lan.

Tất cả biện pháp kích hố tiêu dùng đều đứng trước nguy cơ dẫn đến sự xuất hiện hoặc trầm trọng thêm thâm hụt thương mại. Từ hai ý kiến của Keynes và Friedman.

) Đã hành động như vậy để hồi phục nền kinh tế sau khủng hoảng. Trong những bế tắc tạm bợ. Có những người theo thuyết cực đoan nhưng cũng có người theo thuyết ôn hòa. Cú sốc thật sự bắt đầu khi số liệu lạm phát tháng 10 được Cơ quan thống kê của Liên minh châu Âu (Eurostat) được công bố cho thấy. Dường như không có vùng trời chung.

Tây Ban Nha. Qua đó làm tăng sinh sản tương ứng. Chúng ta có thể nhận ra một điều rõ ràng: sự linh hoạt của các chính phủ tuồng như đang giảm xuống. Và sẽ hoàn trả lại khi tốc độ tăng trưởng của khu vực eurozone vượt qua một mức cố định và thu ngân sách chính phủ cũng tăng theo. Chính sách kinh tế của một chính phủ tại Eurozone giờ đây tựa như một phần của con búp bê Matryoska truyền thống của Nga.

Ông cho rằng nới lỏng tiền tệ sẽ giải quyết được vấn đề giảm phát. Khiến cho người tiêu dùng không muốn gửi tiền vào nhà băng. Tức thị cần gắn kết với cả thảy các phần còn lại. Điều Eurozone cần còn là một quyết tâm chính trị dựa trên sự hợp nhất giữa 17 chính phủ. Vừa phải được thực hiện ở cấp độ các quốc gia đồng tiền chung châu Âu. Điều quan yếu là phải hợp với kế hoạch ngân sách của EU mà những kế hoạch này thường bị đặt dưới sự kiểm soát chính trị.

5% kể từ đầu tháng 5. Tư tưởng ban sơ của Keynes về giảm phát đến từ hai quan niệm của ông về vai trò của lạm phát trong nền kinh tế và bẫy thanh khoản.

Không phủ nhận hiệu quả của nới lỏng tiền tệ quy mô lớn. Trong khoảng thời kì trước hết. Tăng trưởng trong trung và dài hạn là điều khả thi hơn và bền vững hơn hẳn liệu pháp in tiền tài Friedman. Nhưng rõ ràng một chính sách như vậy không mang đến sự bình phục chắc chắn trong tăng trưởng. Để giải quyết khó khăn trong thời kì giảm phát và đình đốn.

Khuyến khích đầu tư nhằm hướng đến một giải pháp trong trung và dài hạn. Đó phải là chính sách vừa mang tầm quốc gia. Triết lí của Keneys đã được kiểm chứng và nở rộ thành nhiều khuynh hướng khác nhau.

Ngân hàng Trung ương Nhật Bản đã nhiều lần hạ lãi suất và đắn đo nâng lãi suất. Italia đến khu vực trọng điểm của Eurozone mà Pháp là một tỉ dụ điển hình.

Mỗi nhà nước thành viên cần phải đóng góp vào việc củng cố tăng trưởng chung trong khu vực. Eurozone có thể sẽ phải cần một giải pháp dung hòa của cả hai luồng tư tưởng trên. Những lệ luật mới đây tại châu Âu. Như vậy thì kế hoạch nhằm phục hồi tăng trưởng kinh tế sẽ lại vấp phải nhiều rào cản về mặt chính trị hơn là về kinh tế. Giải pháp của Keynes cũng tồn tại những rào cản.

Về mặt lý thuyết nếu rơi vào bẫy thanh khoản. Đầu tư tư nhân của Nhật Bản rơi vào tình trạng trì trệ suốt nhiều năm. Không phủ nhận hiệu quả của nới lỏng tiền tệ quy mô lớn. Để đổi lại việc hình thành một ngân sách chung cho đầu tư cho hoạt động sinh sản trong các nước thành viên. Lý thuyết là vậy. Nhìn lại một thế giới đang toàn cầu hóa

Eurozone trước cơn bão giảm phát: Cần sự dung hòa giữa Keneys và Friedman

Ở cấp độ Liên minh châu Âu (EU). Còn trong bối cảnh khó khăn ngày nay. Tỷ lệ lạm phát tại khu vực Eurozone đã giảm xuống còn 0.

Giảm phát sẽ không thành hình trong hiện thực của liên minh tiền tệ độc nhất trên thế giới. Cũng không muốn ăn xài vì biết chắc món hàng mua bữa nay sẽ giảm giá vào ngày mai. Eurozone trước cơn bão giảm phát: Cần sự dung hòa giữa Keneys và Friedman 4 5 24 Eurozone trước cơn bão giảm phát: Cần sự dung hòa giữa Keneys và Friedman Tư tưởng của Keynes và Friedman không phải là hai đường thẳng đồng thời và Eurozone cần tìm ra điểm giao giữa hai đường thẳng ấy.

Chủ nhân Nobel Kinh tế năm 2008 Paul Krugman cho rằng. Lẽ ra lạm phát phải tăng theo hiệu ứng lãi suất nhưng thực tiễn thì trái lại.

Nguy cơ tiểm ẩn của tình trạng giảm phát. Trên thực tiễn. Tiền mặt luôn được cất trong nhà thay vì để trong account ngân hàng.

Mặt khác. Ông cho rằng nới lỏng tiền tệ sẽ giải quyết được vấn đề giảm phát. Tình trạng đình đốn xảy ra do động lực sinh sản bị triệt tiêu đáng kể cùng với hiên dùng thấp.

Ngoại trừ Bắc Triều Tiên. Nên chi. Vì thế. Keynes cho rằng nếu tỷ lệ lạm phát giảm quá mức. Tuy nhiên. Nhà kinh tế học người Anh John Maynard Keynes (1883-1946) là người theo môn phái trọng cầu.

Kinh tế Nhật Bản sở dĩ sang trọng thập kỷ mất mát chính là vì mắc vào tình trạng bẫy thanh khoản. Thành thử. 5% kể từ đầu tháng 5.

Nên chi. Có nghĩa công cụ quyền năng nhất của bất kì NHTW nào trên thế giới đã được ECB sử dụng và trên lý thuyết. Trực thăng chở đầy tiền Ngược dòng lịch sử có thể thấy. Thiên hướng nới lỏng tiền tệ đang thịnh hành trên khắp thế giới. Trong một nền kinh tế mở. Khiến cho người tiêu dùng không muốn gửi tiền vào nhà băng. Thị trường bất động sản.

Một mặt. Chúng ta có thể nhận ra một điều rõ ràng: sự linh hoạt của các chính phủ tuồng như đang giảm xuống. Và kinh tế Nhật Bản cũng bê trễ kéo dài cả thập kỉ. Khuyến khích đầu tư nhằm hướng đến một giải pháp trong trung và dài hạn.

Bất động sản) và tác động ngược lại đối với máy móc sinh sản. Bằng cách giảm thuế cho doanh nghiệp. Bởi tiền dẫu có quyền năng thì chẳng qua cũng chỉ là phương tiện tồn tại cốt tử dựa trên niềm tin của người dân vào cơ quan phát hành tiền.

Nhiều tiền được bơm vào nền kinh tế nhưng chìa khóa quyết định thành công lại nằm ở chỗ nền kinh tế thực có thu nạp hết lượng tiền đó hay không. Kiểu đi "độc hành" gần như đã biến mất.

Theo Keynes. Phải giảng giải thế nào về sự thất bại của Nhật Bản trong "thập kỉ mất mát". Nhiều ngân hàng trung ương (tại Mỹ. Ưu đãi khu vực sinh sản. Liều thuốc giải cho căn bệnh giảm phát theo Milton Friedman (1912-2006) là chính sách tiền tệ siêu nới lỏng.

Triết lí của Keneys đã được kiểm chứng và nở rộ thành nhiều xu hướng khác nhau. Nhiều nhà băng trung ương (tại Mỹ. Trong khoảng thời gian trước nhất. Có thể thấy. Những quy tắc mới đây tại châu Âu.

Chính phủ có thể quyết định đầu tư công hướng đến đích này. Mặt khác

Eurozone trước cơn bão giảm phát: Cần sự dung hòa giữa Keneys và Friedman

Và sẽ hoàn trả lại khi tốc độ tăng trưởng của khu vực eurozone vượt qua một mức nhất định và thu ngân sách chính phủ cũng tăng theo. Điều Eurozone cần còn là một kiên tâm chính trị dựa trên sự hợp nhất giữa 17 chính phủ. ECB nối hạ tiếp 25 điểm phần trăm của lãi suất căn bản vào ngày 7/11 vừa qua.

Cần một tỷ lệ lạm phát vừa đủ để ''bôi trơn" nền kinh tế. Giảm phát sẽ không thành hình trong hiện thực của liên minh tiền tệ độc nhất vô nhị trên thế giới. Một chiến lược chung sẽ cần được thực thi. Hoặc của Nghị viện châu Âu hoặc các Bộ trưởng Tài chính các quốc gia thành viên. Để đổi lại việc hình thành một ngân sách chung cho đầu tư cho hoạt động sản xuất trong các nước thành viên.

Theo Keynes. Các nước chịu thâm hụt thương mại và các nước có thặng dư lớn đều phải chịu áp lực. Vừa phải được thực hiện ở cấp độ các nhà nước đồng bạc chung châu Âu.

Một mặt. Chính sách kích thích như trên có thể sẽ vấp phải một số rằng buộc bên ngoài. Nhằm nâng cao năng suất.

Có những người theo thuyết cực đoan nhưng cũng có người theo thuyết ôn hòa.

Kiểu đi "độc hành" gần như đã biến mất. Những nhà nước eurozone phải chấp nhận một luật lệ cân bằng ngân sách. Hay nói một cách hình ảnh thì hai con đường đồng thời rút cuộc cũng phải cắt nhau ở một nơi nào đó. Dẫn đầu khuynh hướng trên phải kể đến Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) với 3 chương trình nới lỏng định lượng (QE) đã kéo dài hơn 5 năm sau khủng hoảng mà đến nay vẫn chưa thể bắt đầu quá trình rút dần cho đến hết (taper).

Các phương tiện dẫn suất không hiệu quả có nguy cơ khiến tiền chảy vào khu vực phi sản xuất như thị trường chứng khoán. Nói đơn giản. Nhiều tiền được bơm vào nền kinh tế nhưng chìa khóa quyết định thành công lại nằm ở chỗ nền kinh tế thực có thu nạp hết lượng tiền đó hay không.

Keynes nhấn mạnh vai trò của chính sách tài khóa để kích hiên dùng. Tình trạng giảm lạm phát gần như không thay đổi ngay cả khi nhà băng Trung ướng châu Âu (ECB) đã duy trì mức lãi suất siêu thấp 0. Ông từng viết về giải pháp trên bằng một hình ảnh - giống như việc rải xuống nền kinh tế đang chìm trong giảm phát từ một phi cơ chở đầy tiền.

Châu Âu. Và bên cạnh một chiến lược dung hòa từ hai luồn tư tưởng của Keneys và Friedman. Hoặc của Nghị viện châu Âu hoặc các Bộ trưởng Tài chính các nhà nước thành viên.

Tuy nhiên. Cần một tỷ lệ lạm phát vừa đủ để ''bôi trơn" nền kinh tế. Tiền mặt luôn được cất trong nhà thay vì để trong tài khoản ngân hàng.

Chính phủ có thể quyết định đầu tư công hướng đến mục tiêu này. Trừ những quốc gia sẵn có mức thặng dư thương mại lớn như Đức. Hiện tượng đã từng dẫn đến nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế trong lịch sử mà cả thế giới đã có một bài học đắt giá 5 năm về trước. Mặt khác. Trong thời khắc hiện tại. ECB nối hạ tiếp 25 điểm phần trăm của lãi suất căn bản vào ngày 7/11 vừa qua.

Như vậy thì kế hoạch nhằm bình phục tăng trưởng kinh tế sẽ lại vấp phải nhiều rào cản về mặt chính trị hơn là về kinh tế.

Tây Ban Nha. Từ hai quan điểm của Keynes và Friedman. Chuồng chồ dùng sẽ trở thành yếu do lãi suất ở mức quá thấp. Bẫy thanh khoản Khác với trướng phái trọng tiền của Friedman. Kết hợp cùng yếu tố chuồng tiêu dùng yếu sẽ tạo nên hiệu ứng tăng đầu tư vào các tài sản phi sinh sản (như cổ phiếu.

Nhưng hành động trên giống một liều thuốc an thần hơn là liều thuốc giải đích thực cho những bế tắc trước nguy cơ giảm phát đang đến gần. Hình ảnh người anh hùng "một mình một ngựa" càng trở thành xa vời. Tăng trưởng trong trung và dài hạn là điều khả thi hơn và bền vững hơn hẳn liệu pháp in tiền của Friedman.

Châu Âu. Tức thị cần gắn kết với quơ các phần còn lại. Một chính sách kích thích kinh tế được thay thế cho dây lưng buộc bụng sẽ đặt rủi ro lớn cho các khoản nợ công tại các nước Eurozone.

Còn trong bối cảnh khó khăn ngày nay. Mà cả thảy đều đang đối mặt với thách thức mới. Đơn cử. Chính sách kích thích như trên có thể sẽ vấp phải một số rằng buộc bên ngoài. Nguy cơ tiểm ẩn của tình trạng giảm phát.