Thứ Sáu, 13 tháng 9, 2013

Nhà văn, sứ giả ý tưởng văn hóa dân tộc thời toàn cầu hóa.

Cũng như vậy, thơ Nguyễn Trãi, thơ Hồ Xuân Hương. QĐND  -   1. 4. Rất, rất nhiều người trong nhân gian đông đúc và tò mò bây chừ chỉ cần nhấp chuột bấm phím máy tính đã nối mạng là có thể biết 24 giờ qua thế giới có những chuyện gì, từ những vụ biểu tình bạo loạn, đánh bom khủng bố đến sáng kiến kỳ quặc là người ta có thể thỏa mãn dục tình khi xa nhau nhờ những bộ đồ lót được số hóa.

Dù quá trình toàn cầu hóa có diễn tiến quyết liệt và thảm khốc đến bao lăm thì sự quý trọng thành thực các nền văn hóa khác nhau là một trong các yếu tố bảo đảm hòa bình cho nhân loại.

Hầu như mọi lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị, ngoại giao, quân sự và cố nhiên là cả văn hóa nữa đều bị chi phối bởi cái gọi là toàn cầu hóa. NGUYỄN HỮU QUÝ. Mọi nền văn hóa, mọi nền văn chương trên thế giới đều phải được bình đẳng. Cách đây mấy trăm năm, Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều bằng chữ Nôm với thể thơ lục bát của Việt Nam trên cơ sở nội dung một tác phẩm văn xuôi của Thanh Tâm tài nhân (Trung Quốc) là một tỉ dụ về giao thoa văn học.

Không chỉ các nhà văn Á-Phi, mà tôi nghĩ rằng, ai là người cầm bút chân chính trên địa cầu – cái làng chung của nhân loại - cũng đều nghĩ suy và mong muốn làm được như thế.

Gìn giữ thơ ca dân tộc, đó còn có nghĩa là bảo tồn tâm hồn của chính dân chúng, vì chưng chính trong thơ ca đã in dấu các truyền thống sinh hoạt và lễ thức của quần chúng. Đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc là đánh mất bít tất. Văn hóa nói chung và văn chương nói riêng của mỗi dân tộc cũng chẳng thể bình an, đứng riêng một cõi. Những bước tiến của tri thức, của khoa học kỹ thuật cần được “bảo hiểm” bởi lòng nhân ái và tình thương đồng loại, mà như chúng ta đã biết thi ca và văn chương luôn hướng về điều đó.

Và tuồng như còn hơn thế nữa. Tôi nghĩ, Nguyễn Du đã đi đến cùng tận dân tộc Việt của mình, kể cả nỗi đau và khát vọng nên mới gặp được nhân loại trong mẫu số chung là ước mong về cuộc sống lương thiện, nhân hòa.

Chao ôi, nhân loại đang hiện thực hóa những ý tưởng cách đây chưa lâu mấy được coi là viển vông, điên rồ trong dòng chảy cuồn cuộn mang tên toàn cầu hóa. Ở khía cạnh này, sự gặp gỡ của quan hệ nội tại dựa trên những tác phẩm văn học sẽ cho chúng ta thời cơ lớn để hội thoại về văn hóa và văn minh một cách tôn trọng và hòa bình. Trong thời đại kỹ thuật số, không phải không có lý khi ai đó cho rằng Trái đất muôn nghìn yêu quý của chúng ta chỉ là một cái làng lớn.

Cũng hướng về dân tộc và Tổ quốc mình, thi sĩ Agus R. Văn hóa là tấm chứng minh thư chính xác nhất của mỗi dân tộc; không biết Giữ gìn, bảo toàn và phát triển nó thì mọi chũm sáng tạo văn chương nghệ thuật, theo tôi sẽ không tới đích, sẽ khó vươn ra nhân loại được. Trái tim ấy sẵn sàng hiệp tác với những dân tộc của một nhà nước, một nền văn hóa khác, gieo trồng hòa bình trên mảnh đất mỡ màu của tri thức.

Rất mau lẹ, những nhà nước có mức thu nhập làng nhàng như Việt Nam hoặc kém hơn vẫn có thể xài những sản phẩm mới mẻ nhất, cố nhiên là rất hiện đại, tinh vi mà nói theo tiếng nói bụi là "hàng khủng" và cũng đắt tiền nhất được sản xuất ra từ những nước G7.

Toàn cầu hóa, đấy là khái niệm quan trọng bậc nhất, thẳng tuột được con người nhắc đến. Thực ra, sự hòa nhập, giao thoa văn hóa đã có từ lâu, nghe đâu nó đi trước cả kinh tế, chính trị. Họ cho rằng: Trong thời đại toàn cầu hóa, nhà văn phải biểu lộ được lương tâm của dân chúng nước mình và quyết không để một thế lực nào đó làm bá chủ về văn hóa, phải chống sự quay lại của chủ nghĩa thực dân hóa.

Sarjono (Indonesia) tâm tình: Trái tim của những nền văn hóa được giữ giàng và biểu thị chuẩn y các tác phẩm văn học. Nhưng cái đáng nói là Truyện Kiều của Tố như thường bị chìm khuất, lép vế sau Đoạn trường tân thanh mà nó đã trở nên tác phẩm đồ sộ, trở thành chói sáng ranh ma bởi những câu thơ lục bát tài tình viết bằng chữ Nôm chỉ có ở Việt Nam thấm đẫm nỗi xót xa nhân loại từ "Những điều trông thấy mà đau đớn lòng".

Với thi ca, ông cảm nhận: Thơ nhìn vào thế giới từ những đặc điểm riêng và sự dị biệt của nó, do vậy thơ có sức mạnh bảo vệ và phát triển bản sắc văn hóa của mỗi nhà nước, chạm vào trái tim của con người trên khắp thế giới.

Khi viết ra những dòng này, tôi lại nhớ tới những suy nghĩ về nghề của một nhà văn quân đội mà tôi rất kính trọng là Nguyễn Minh Châu.

Ông tâm tư rằng: Mỗi nhà văn gắn chặt với số mệnh dân tộc và đất nước mình – như cái đai của người mẹ quấn quanh mình đứa trẻ. Những điều nhà văn tài danh này ngẫm ngợi rất đáng để các nhà văn chúng ta soi mình trong dòng hội nhập toàn cầu hóa bữa nay: tả chân thực đời sống con người Việt Nam thấu tận chiều sâu triết học, con đường văn chương ta xoành xoạch được cầm tay dân chúng và tìm thấy tiếng nói trong nền văn chương thế giới (tập san văn chương, 5 - 1989).

Ý niệm ấy có vẻ như đồng thuận với ý niệm của không ít nhà văn, nhà thơ không mang quốc tịch Việt Nam. Văn hóa nói chung và văn học nói riêng xoành xoạch là nhịp cầu nối hữu nghị để các dân tộc, các nhà nước xích lại gần nhau. Lòng thương người, tính nhân văn ắp ứa từng con chữ; nhân loại tìm thấy trong bóng dáng nàng Kiều của Nguyễn Du những số kiếp tài sắc bạc mệnh, từ đó kinh tởm hờn căm cái ác độc, cái xấu xa và khát khao thái bình hạnh phúc cho con người bé nhỏ.

2. 3. Toàn cầu hóa là quá trình thế tất của lịch sử nhân loại, dù ai cố sức bế quan tỏa cảng cũng không ngăn chặn được sự thâm nhập bạo liệt và thờ ơ của nó vào nhà nước, dân tộc mình ở nhiều mặt.

Tôi rất ý hợp tâm đầu với ý kiến của nhà văn Fadhl Thamir đến từ I-rắc: Nhà văn phải là những sứ thần chuyển thông điệp của dân tộc mình ra thế giới, ra nhân loại.

Những tập đoàn kinh tế, những công ty xuyên quốc gia không còn là chuyện lạ lẫm với chúng ta. #, Những bài ca, những anh hùng ca, huyền thoại và đạo lý nhiều thế kỷ của tổ tông. Các nhà nước, các dân tộc trên hành tinh này ít cách biệt hơn nếu không muốn nói là đang có khuynh hướng xích lại gần nhau. Chẳng riêng gì ta, bản sắc dân tộc là điều thiêng liêng rất được các nhà văn, thi sĩ nước ngoài chú ý.

Trong Liên hoan Thơ quốc tế châu Á-Thái Bình Dương lần thứ nhất được tổ chức vào đầu năm 2012 tại Hạ Long (Quảng Ninh, Việt Nam), tôi đã nghe được điều ấy từ một số thi sĩ nước ngoài.

Rõ ràng, thơ ca nói riêng và văn chương nói chung vẫn chưa mất đi giá trị của nó trong việc bảo vệ và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời cũng là nhịp cầu nối các nền văn hóa lại với nhau trong tình ái và khát vọng hòa bình cho nhân loại. Trong bài viết của mình, Nikolai Preiaxlov đến từ giang san Nga đã khẳng định: gìn giữ thơ ca dân tộc, đó không chỉ đơn giản là bảo toàn văn hóa khỏi sự vứt bỏ và sự xói mòn bởi những trào lưu văn học mốt mới.

Sáng tỏ ra một điều, đã có từ xưa, dù có giao thoa hòa nhập đến chừng độ nào đi nữa thì cốt cách, hồn mai dân tộc vẫn phải là mấu chốt, vẫn là cái đặc trưng của mình. Con người làm ra những công cụ tải đường không, đường thủy, đường bộ ngày càng hiện đại, cùng với hệ thống mạng tinh vi và đổi thay đến chóng mặt kết nối khắp mọi miền trên địa cầu làm cho nhiều câu chuyện "trong nhà chưa tỏ, ngoài ngõ đã thông".

Người nghệ sĩ là một đứa con của giang san mà chỉ có nó mới có thể giao cảm hết những cái vui buồn và nhọc nhằn của người mẹ - cả những điều mà người mẹ không bao giờ nói ra (Trang giấy trước đèn). Mới khẳng định được giá trị tư tưởng và nghệ thuật ở ngoài biên thuỳ giang san này. Rất gần đây, trong Hội thảo bàn tròn Vai trò các nhà văn Á-Phi trong thời đại toàn cầu hóa, tổ chức tại hội sở Hội Nhà văn Việt Nam (9 - Nguyễn Đình Chiểu - Hà Nội), tôi cũng nghe các nhà văn trong và ngoài nước nhiều lần nhấn mạnh đến bản sắc dân tộc.