Thứ Sáu, 13 tháng 9, 2013

Theo chân công năng kẻ lữ hành.

Nền văn minh thảo mộc đã bị thất thủ

Theo chân kẻ lữ hành

HCM, tuổi xanh. Không phải là những tín hiệu sáng sủa cho văn hóa Tây Nguyên như những bài báo cưỡi ngựa xem hoa tán tụng hương xa, mà sâu xa, là tiếng kêu nhói lòng về một cõi minh triết (theo cách nói của Jacques Dournes) đã mất.

Anh viết về họ như họ là người đồng thuyền, đồng hành với mình. Nạo vét từng tấc đất thiên nhiên để làm giàu trước mắt chưa đủ, con người còn quét dọn sạch nhẵn vết tích của nền văn minh thảo mộc khi nhân danh “tình yêu văn hóa”, khoác áo nhà sưu tập cổ vật để cưa sạch những vườn tượng nhà mồ, vét sạch những cổ vật bản địa (Thời sạo sục của những “nhà sưu tập”).

Tiếng kêu nhói lòng cho thiên đường đã mất Nhưng nói đến Nguyễn Hàng Tình, có nhẽ đặc sắc nhất vẫn là những thiên ký sự về một thiên đường đã mất – đó là rừng, là cái mà anh gọi là chốn hoang vu – đang từng ngày từng giờ bị những đầu óc tính liệu thực dụng, vô nghĩa vụ ra công đào bới, giành giật, truất hữu. Đây đó trong những cánh rừng còn sót lại, Nguyễn Hàng Tình tìm cách phơi bày cái thực trạng tệ hại nơi những lời khẩn cầu đầy lố lăng cất lên nơi xác cổ tháp Yang Prông hoang tàn sót lại giữa rừng sâu (Sự suy tư của cổ tháp giữa rừng già), của những vụ tính sổ đẫm máu, thế giới u tối quẫn bách trong các lán trại vàng thượng nguồn dòng Da Dang, Krông Ana (Thế giới “bờ bãi”), của lối đánh cá tận diệt trên hồ Lăk (Quần thảo hồ Lăk), chính sách phá rừng trồng cao su đầy thiển cận phá vỡ hệ sinh thái rừng ở Ia Puch, Ia Boòng, Ia Mer (Mủ cao su thiêu bóng Chư Prông).

Ông không nói về những hiểm làm nên mùi vị, sức lôi cuốn và biết bao day dứt, kể cả tổn thương phía sau những chuyến phiêu du.

Tất cả đều mang trong mình cái gai góc của những sinh phận quen xiêu bạt và phần nào đó, họ có cái kiêu hãnh trong đơn chiếc, tự do trong dấn thân. Và nữa, họ có cái nghệ sĩ tính trong hành xử với thế cuộc. Các ký sự đường rừng của ông từng ban bố trên  cần lao, Sài Gòn Tiếp Thị, Văn Nghệ Trẻ, Pháp Luật TP.

Trong cuộc phiêu lãng đầy tự do đó, Nguyễn Hàng Tình đồng cảm và kể câu chuyện những thân phận cũng xiêu dạt, di dịch mà anh gặp trên đường: nhóm dân cày miền xuôi di cư mạn ngược để làm mướn trong mùa thu hoạch càphê (Mùa dân cày thiên di), những người “len ong” trong mùa khô Tây Nguyên (Một kiếp theo ong), những người chăn bò du mục yêu tự do trên thảo nguyên M’Drăk (Trên thảo nguyên M’Drăk) hay những ngư phủ sống “thế cục không kịch bản”, giang hồ khắp cõi Đông Dương một hôm cất câu vọng cổ buồn ray rứt giữa đại ngàn (Ngư phủ trên núi).

Trong những thiên phóng sự, bút ký của Nguyễn Hàng Tình, nhân vật dù là anh chàng mười sáu tuổi đánh xe thổ mộ ở thị trấn Dran hay nhà sáng chế chiếc máy gặt lúa, từ ông chủ nông trại nho gốc Pháp tại Tà Nung hay một hành giả chủ trang trại lan trên cao nguyên Lang Biang

Theo chân kẻ lữ hành

Chất nhân cảm, sự tinh tế, hàm lượng suy tư nhào trộn trong một phong cách văn chương hào phóng thiên nhiên là điều làm nên sức sống vượt trên thời sự của ký Nguyễn Hàng Tình. Mà phá hoại văn hóa đâu chỉ là việc làm những người đói khổ, giới hạn nhận thức, di sản, ký ức văn hóa là những khái niệm xa lạ trong tư duy những nhà quản lý não trạng con buôn sẵn sàng gỡ từng thanh sắt của cây cầu sắt Dran, dấu chỉ của tuyến đường sắt răng cưa Đà Lạt – Phan Rang trong kí vãng để bán sắt vụn (Con đường sắt nối biển với hoa tan như sương khói).

Những trang ký sự nhân vật không chỉ biểu đạt rõ nét chân dung, tâm hồn con người, mà phản chiếu bóng vía tính cách, gửi gắm suy tư của người viết, một nhà báo độc lập tìm thấy sự san sớt trong khát vọng, ý hướng sống.

Lời “tạm biệt hoang vu” của một tấm lòng hiếu hạnh với rừng núi biết sẽ không còn đủ sức lay động, hay kịp ngăn chặn những cỗ máy man rợ cào vét tài nguyên, nhưng nó vẫn là một lời tạm biệt tử tế của một ngòi bút có nghĩa vụ, dấn thân, là bản lĩnh của một ký giả với vùng đất mình gắn bó.

Những trang viết của Jacques Dournes chỉ nói cái mênh mang tự do, hào hoa bay bổng của những cuộc hành trình trải ra trước mắt kẻ lữ hành với “gùi trên vai và giáo cầm tay”, đi mải miết trong chốn rừng sâu núi thẳm, qua những làng mạc xa lạ, chinh phục những nẻo đường mới, xuyên những miền không gian, thời kì tơ tưởng.

Nguyễn Hàng Tình hiện là ký giả tự do sống ở Đà Lạt; từng đại diện cho báo Tuổi Trẻ tại Nam bộ và Tây Nguyên.

Thông điệp trả rừng cho Tây Nguyên đưa ra lúc này có thể đã muộn. Là Easô của những cuộc lăng trì, săn bắn một thời dậy sóng dư luận (Easô, Khu rừng chìm nổi), là những mảng rừng Ninh Sơn, Ninh Thuận bị xóa trắng với cái lý lẽ quẩn khốn cùng của đám lâm tặc (Nước mắt lâm tặc), là câu chuyện con voi quậy ở núi rừng Đạ Tồn như bằng chứng cho một thảm kịch về môi trường (Vác đơn đi kiện voi rừng), hay sự biến mất của những dòng thác đẹp tuyệt trần vì các dự án thủy điện đã giết chết những dòng sông Tây Nguyên (Đi tìm thác đổ).

Nguyễn Vĩnh Nguyên (Đọc giã từ hoang vu, ký sự Nguyễn Hàng Tình, Phương Nam Book & NXB Hội Nhà Văn, 2013) Những trang ký sự nhân vật không chỉ biểu lộ rõ nét chân dung, tâm hồn con người, mà phản ảnh bóng dáng tính cách, gửi gắm suy tư của người viết, một nhà báo độc lập tìm thấy sự san sớt trong khát vọng, ý hướng sống.

Đọc sách Cây bút của núi rừng Tây Nguyên đầu tiên, có lẽ vì một sự gặp gỡ trong tính cách ngang tàng phiêu lãng không ngừng nghỉ với núi rừng, hít thở, ăn nằm, học hỏi và lớn lên trong cái minh triết của núi rừng. Những trang viết với thông điệp trực tiếp, mạnh mẽ, không chỉ dừng ở tính thông báo tạm, mà đi đến chất thơ trong mô tả khiến ta nhớ tiếc, chạm đến cái hài hước đắng cay khiến ta ngậm ngùi day dứt.

Đọc ký của Nguyễn Hàng Tình, độc giả nghe ra trong tiếng chiêng chuyển “chức năng” của giàn cồng chiêng phục vụ du lịch hàng đêm ở trên núi Lang Biang hay sự đổi đời của những dũng sĩ săn voi ở Buôn Đôn trở thành kẻ nài voi phục vụ du lịch.